Sélection de mémoires et carnets rédigés par des femmes vietnamiennes en relation avec la guerre du Viêt-Nam. Classement par ordre alphabétique des noms d’auteur
Tuyển chọn các hồi ký và nhật ký liên quan đến cuộc chiến tranh sáng tác bởi phụ nữ Việt Nam. Xếp theo họ tác giả
Jackie Bong Wright, Autumn Cloud : From Vietnam War Widow to American Activist, Capital Life, 2001.
Le Thi Thu Van, whose first name translates as Autumn Cloud, was born in 1940 in Cambodia, where her affluent Vietnamese parents lived. She and her large family, like millions of other southern Vietnamese, were profoundly affected by the wars and civil unrest that buffeted Southeast Asia for most of the next four decades : the Japanese occupation during World War II ; the First Indochina War from 1945 to 1954, which ended with the humiliating French defeat at Dien Bien Phu ; and the American war, which began incrementally in the mid-’50s, peaked in the late-’60s and ended ingloriously with the Communist victory in 1975.
Le Thi Thu Van’s family suffered in many ways during these momentous events. The family fortune was lost ; one sister abandoned the family to devote her life to the Communist revolution ; a brother was killed in the American war ; another brother did not survive the Communist postwar « re-education » camps. The author married a reform-minded South Vietnamese politician [Nguyen Van Bong] ; he was assassinated, probably by the Vietcong. She was left with three young children. Le Thi Thu Van tells three stories in this smoothly written autobiography : her own, her family’s and Vietnam’s. The most effective sections are the straightforward depictions of the many and varied events of the author’s life and her explanations of Vietnamese society and culture. The least successful are the sketchy historical sections and the author’s staunchly anti-Communist analyses of the reasons behind the American defeat. Overall, though, the author shows very well how Le Thi Thu Van went from « being an innocent girl to a sophisticated wife, an unexpected widow, and finally a professional woman, » known on three continents as Jackie Bong Wright. (Sept. 15)
Source : http://books.google.com.nf/books/ab...
Chan Khong [Cao Ngoc Phuong], Learning True Love. How I Learned and Practiced Social Change in Vietnam, Parallax Press, Berkeley, 1993.
A young woman rides a motorbike along a road in Vietnam, a box of banned pamphlets strapped behind her, bombs exploding so near that she is sure she will be killed.
The same woman comes upon a platoon of U.S. soldiers preparing to destroy a village where they suspect the presence of Vietcong. Looking deep into their eyes, seeing their fear, she convinces them that no guerrillas lurk among the thatch houses. The soldiers leave.
Frustrated by obstacles to efforts she and activist monk Thich Nhat Hanh have made to save the boat people fleeing Vietnam, this woman convinces her brother and friends to join her on a « fishing boat. » In their small craft they ply the waters off the coast of Thailand, dodging pirates and government officials, to secretly aid the boatloads of Vietnamese refugees they encounter.
These and more images stay with me after reading Chan Khong’s Learning True Love. The book reveals a gifted, immensely resourceful, wonderfully brave woman whose immersion in Buddhist practice and principles guides her untiring activism on behalf of the Vietnamese people. It offers inspiration to Buddhists and non-Buddhists alike who seek to cultivate peace. And through the life of one extraordinary woman we get a privileged glimpse into the experience of the Vietnamese people during the war.
This odyssey of compassion begins with Chan Khong’s learning from her family to give to those who have less, care for those who cannot care for themselves. It describes Chan Khong’s early efforts in her own country and then moves to the arena of international diplomacy as she joins Thich Nhat Hanh in Paris to work for peace.
Her experience in Vietnam in the sixties is harrowing. Bombings and harassment by combatants on both sides hindered the work of the School of Youth for Social Service, an institution founded by Thich Nhat Hanh and Khong to send students to help the people in the villages. In one striking section Chan Khong tells of carrying decomposing corpses from the battlefield. We remember the images on our television screens of some Vietnamese monks and nuns seated peacefully, wreathed in flames. The chapter describing the self-immolation of Sister Mai, a good friend and co-worker of Chan Khong, depicts Khong at first questioning whether self-immolation could be a proper act for a Buddhist to perform. But when she saw the increased concern for her people that followed her friend’s death, she conceded the power of self-sacrifice.
On a trip to the United States to represent the Vietnamese Buddhist Peace Delegation, she and Thich Nhat Hanh were shocked to discover that a good portion of the peace movement here advocated the victory of the Communists. « If supporting Hanoi would bring happiness to the Vietnamese people, we would do so, » she explained to the Americans.
But war and violence only bring more destruction. We have witnessed the Vietnamese warring parties violently destroying their own people. We prefer to live simply, helping people control their own fates with their own small means. That is why we refuse to support either side.
In recent years Chan Khong turned her attention to sending aid to artists, poets, and writers who had been silenced in Vietnam. And she persuaded Amnesty International to help on behalf of prisoners in Vietnamese « re-education camps. » At Plum Village, the retreat center established by Thich Nhat Hanh and Sister Khong in the Dordogne region of France, she counsels refugees and instructs the many Western meditators who come each year.
How does Chan Khong maintain her equilibrium in the midst of this demanding, stressful, often discouraging work, and avoid the burnout that Western activists experience ? In each hugely busy week, she and her fellow workers select one day as a whole « day of mindfulness » in which to meditate, sit quietly, return into themselves, and reestablish their calm.
Sister Chan Khong, now in her mid-fifties, only recently took the robes of a Buddhist nun. Even after a life of such dedication and courage, she waited, she tells us, until she could feel worthy of the veneration those robes awaken in the Buddhists of her country. Her book, which has the pace and excitement of an adventure story and the depth of a spiritual inquiry, suggests the arduous preparation she underwent.
With precious few Buddhist political, spiritual heroines to inspire us, Chan Khong stands among the most compassionate, persistent, and brave.
Sandy Boucher
Source : http://www.tricycle.com/reviews/lea...
Nhà văn, nhà báo Dương Thị Xuân Quý sinh ngày 19-4-1941 tại Hà Hội, quê quán thôn Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên trong một dòng tộc trí thức, nghệ sĩ yêu nước chống thực dân Pháp. Ông nội chị, cụ Dương Trọng Phổ, từ rất sớm đã vận động cho Đông Kinh Nghĩa Thục, bị thực dân Pháp đày ra Côn Lôn. Phụ thân chị, ông Dương Tụ Quán là một nhà giáo sau chuyển sang làm báo, chủ trương tờ Văn Học tạp chí, rồi tạp chí Tri Tân. Bác ruột chị, ông cử Dương Bá Trạc vừa tham gia tích cực trong Đông Kinh Nghĩa Thục vừa viết báo viết văn. Sau khi đàn áp Đông Kinh Nghĩa Thục, thực dân Pháp mời ông làm tri huyện nhưng ông từ chối và tiếp tục hoạt động chống Pháp, bị chúng đày ra đảo Côn Lôn trước cụ Dương Trọng Phổ ít ngày. Một người bác ruột nữa của Dương Thị Xuân Quý là nhà nghiên cứu nổi tiếng Dương Quảng Hàm. Hai người anh con bác ruột của chị là các họa sĩ Dương Bích Liên, Dương Cẩm Chương.
Có năng khiếu và say mê văn chương, cô bé Dương Thị Xuân Quý đã thích ghi nhật ký từ 7 tuổi, khi đang sống với gia đình tại Thái Nguyên thuộc chiến khu Việt Bắc. Sau ngày giải phóng thủ đô, Dương Thị Xuân Quý về Hà Nội học trường phổ thông cấp 2 Trưng Vương, rồi ra Quảng Ninh học trường trung cấp mỏ, sau đó về học khóa báo chí do Ban Tuyên huấn trung ương mở. Tốt nghiệp khóa học, chị về làm phóng viên báo Phụ Nữ Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968. Là một phóng viên năng nổ và xông xáo, Dương Thị Xuân Quý đã có mặt ở nhiều vùng nông thôn trên miền Bắc. Mang thai con đến tháng thứ sáu, chị vẫn về Quảng Nạp (Thái Bình), đi cấy đi gặt với bà con xã viên để vừa viết báo vừa viết văn. Khi giặc Mỹ ném bom miền Bắc, Dương Thị Xuân Quý đã có mặt ngay tại các vùng trọng điểm tuyến lửa Nghệ An, Hà Tĩnh năm 1965. Cùng năm ấy, chị viết đơn tình nguyện xin được vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Tháng 4 năm 1968, chị lên đường vượt Trường Sơn vào miền Nam, khi con gái mới 16 tháng tuổi, và chồng chị, nhà thơ Bùi Minh Quốc thì đã có mặt ở chiến trường từ một năm trước đó. Đêm 8-3-1969, Dương Thị Xuân Quý anh dũng hy sinh tại thôn Thi Thại, xã Xuyên Tân (nay là Duy Thành) huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam trong một trận càn quét ác liệt của giặc Nam Triều Tiên khi chị cùng đồng đội từ dưới hầm bí mật bò lên cố tìm cách thoát ra khỏi vòng càn.
Ngã xuống giữa tuổi 28 phơi phới thanh xuân, Dương Thị Xuân Quý để lại cho đời tác phẩm “Hoa rừng” (gồm các truyện ngắn, bút ký viết trên miền Bắc và trong thời gian ngắn ngủi ở miền Nam) cùng tấm gương ngời sáng của một nhà văn - chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp độc lập cho dân tộc và tự do cho mỗi con người.
Bùi Minh Quốc : http://www.nhacpop.net/forum/showth...
Báo Quảng Nam vừa nhận được một tư liệu quý dài gần 80 trang : tập “Nhật ký chiến trường” của nhà văn, nhà báo, liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý từ nhà thơ Bùi Minh Quốc. Theo nhà thơ Bùi Minh Quốc (cũng là chồng của nhà văn Dương Thị Xuân Quý), đây chính là những trang nhật ký lần đầu tiên được công bố chính thức, qua đó sẽ cho thấy nữ nhà văn trẻ “đã sống, suy nghĩ, làm việc thế nào, trong một hoàn cảnh dữ dội thế nào, từ ngày chị rời thủ đô Hà Nội đến khi rời căn cứ A7 miền tây Quảng Nam đi chuyến công tác đầu tiên, và cũng là cuối cùng, xuống chiến trường đồng bằng”. Nhà văn - liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý vừa được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, và “Tuyển tập Dương Thị Xuân Quý” đang được chuẩn bị xuất bản. Năm 1983, nhà văn Nguyên Ngọc từng viết về Dương Thị Xuân Quý : “Thật bất công nếu không gọi chị là một người anh hùng”.
Duong Van Mai Elliott, The Sacred Willow. Four Generations in the Life of a Vietnamese Family, Oxford University Press, 2000.
Duong Van Mai Elliott’s The Sacred Willow, an extraordinary narrative woven from the lives of four generations of her family, illuminates fascinating—and until now unexplored—strands of Vietnamese history.
Beginning with her great-grandfather, who rose from rural poverty to become an influential mandarin, and continuing to the present, Mai Elliott traces her family’s journey through an era of tumultuous change. She tells us of childhood hours in her grandmother’s silk shop—and of hiding while French troops torched her village, watching blossoms torn by fire from the trees flutter « like hundreds of butterflies » overhead. She reveals the agonizing choices that split Vietnamese families : her eldest sister left her staunchly anti-communist home to join the Viet Minh, and spent months sleeping with her infant son in jungle camps, fearing air raids by day and tigers by night. And she follows several family members through the last, desperate hours of the fall of Saigon—including one nephew who tried to escape by grabbing the skid of a departing American helicopter.
Based on family papers, dozens of interviews, and a wealth of other research, this is not only a memorable family saga, but a record of how the Vietnamese themselves have experienced their times. At times haunting, at times heartbreaking—it is always mesmerizing—The Sacred Willow will forever change how we view the history of Vietnam and our own role in it.
Source : http://www.oup.com/us/catalog/gener...
Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942, trong một gia đình trí thức. Bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là dược sĩ Doãn Ngọc Trâm – Nguyên giảng viên trường Đại học Dược khoa Hà Nội.
Tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thuỳ Trâm xung phong vào công tác ở chiến trường B. Sau ba tháng hành quân từ miền Bắc, tháng 3 năm 1967 chị vào đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách bệnh viện huyện Đức Phổ, một bệnh viện dân y nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh. Chị được kết nạp Đảng ngày 27 tháng 9 năm 1968. Ngày 22 tháng 6 năm 1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, chị bị địch phục kích và hy sinh anh dũng lúc mới chưa đầy 28 tuổi đời, 2 tuổi Đảng và 3 năm tuổi nghề.
Hài cốt của chị được đồng bào địa phương an táng tại nơi chị ngã xuống và luôn hương khói. Sau giải phóng, chị được gia đình và đồng đội đưa về nghĩa trang Liệt sĩ xả Phổ Cường. Năm 1990, gia đình đã đưa chị về yên nghĩ tại nghĩa trang Liệt sĩ xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu hai cuốn nhật ký của Liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm ghi trong những ngày ở chiến trường. Bản thân hai cuốn nhật ký này cũng có một số phận kỳ lạ : chúng rơi vào tay những con người có lương tri bên kia chiến tuyến, được họ giữ gìn và tìm mọi cách để đưa về cho gia đình chị. Sau hơn một phần ba thế kỷ lưu lạc, đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30.4.2005), nó đã trở về với gia đình liệt sĩ. Hiện cuốn nhật ký được lưu giữ tại Viện Lưu trữ về Việt Nam ở Lubbock, Texas, Mỹ.
Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp. Chúng tôi cũng chú giải một số điểm cần thiết để bạn đọc có thể hiểu hơn hoàn cảnh cũng như lịch sử và bản thân tác giả.
Ngoài ra, trong phần ảnh tư liệu, được phép của những người có liên quan, chúng tôi có sử dụng những bức ảnh trong album gia đình, ảnh chụp ở Quảng Ngãi trong những năm 1969 – 1970 do Frederic Whitehurst cung cấp và một số bức ảnh do liệt sĩ Nguyễn Văn Giá – Phóng viên hãng phim Thời sự - Tài liệu Việt Nam chụp tháng 10.1969 ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ - Quảng Ngãi trước khi anh hy sinh.
Vương Trí Nhàn
Le Ly Hayslip with Jay Wurts, When Heaven and Earth Changed Places, Plume, 1993.
Analysis of Major Characters
Le Ly Hayslip
Having been a Viet Cong spy, a servant, a black marketer, a teenage single mother, and an expatriate, Le Ly is, above all, a survivor. She does whatever necessary to survive through the war and its atrocities. In this way, she is an embodiment of her country : forced by war into extreme and unusual circumstances, she perseveres in any way she can. The war has left her with a mix of traditions and thoughts ; she values her father’s Buddhism, as well as his emphasis on family, but she has left her ancestral home for a better life abroad. On her return to Vietnam, she quenches her homesickness for Vietnamese food but continues to dress in Western style. This combination of East and West in Le Ly is representative of how the war altered many people, displacing their values and changing their perspectives.
In addition to being representative of the generation affected by the war, Le Ly is also a messenger of peace. Throughout her memoir, Le Ly conveys the most important lessons she has learned from the war : forgiveness is the way to mend the hurt that was inflicted on all sides involved in the war, family is the most important thing in life, and all sides, the Vietnamese and the Western world, need to work together to bring life and hope back into her homeland. She wants these lessons to be a prescriptive to all of those affected by and hurt from the war. Le Ly returns to Vietnam in part to help mend what the war had destroyed in her country and in her family. Her memoirs are an extension of this healing journey, administering peace as an antidote to war and forgiveness as an antidote to hate.
Huyen (Mother)
Huyen, Le Ly’s mother, represents the Vietnamese peasantry, closely adhering to its traditions and social code. Throughout her life, she works hard raising her family and caring for their land. She embraces the Viet Cong, even after her own near-execution and subsequent exile. When Le Ly returns from the United States, she is greeted rather coldly by her mother, who gradually accepts her again, as Vietnam gradually re-embraces the West. Huyen remains suspicious of Le Ly and her Western ways, and Huyen chooses to sleep on the floor at the hotel and generally to continue her traditional peasant way of life. Yet she does not reject Le Ly and what she has come to stand for ; in fact, she eagerly accepts gifts from Le Ly on numerous occasions. Huyen is centered between the two ideological poles of her children—a Communist official son and an Americanized daughter. She still believes in the idea of a Communist and independent Vietnam but eagerly accepts the benefits of the Western world. Most Vietnamese, like Huyen, remain somewhere in the middle.
Huyen also represents the Vietnamese people in her slow but eventual ability to learn to forgive. From Le Ly, Huyen is reminded of the healing power and goodness of forgiveness, and is thus able to forgive her daughter, Ba, which reunites the family one last time. In a broader sense, Le Ly aims to convey this lesson to the Vietnamese in general. Through forgiveness, healing and much-needed reunification are possible.
Trong (Father)
A kind and gentle man and devout Buddhist, Trong is a stable and spiritual presence in Le Ly’s life. Trong represents the disappearing Vietnamese culture based on the importance of family, land, and peace. In this tradition, he imparts three important lessons on Le Ly. First, he advises his daughter that the best way in which she can fight and be a woman warrior is by being a mother and creating her own family. Second, he teachers her that war is the enemy—not a particular side or ideology. Throughout the atrocities, Trong continues to try to believe in the goodness of his fellow man. Men do terrible things because of the terrible situation of war. Third is the power of forgiveness. His philosophy on war enables Le Ly to forgive those who have wronged her because of the war. Although he advocates the power of forgiveness, Trong ultimately is not as strong as his daughter. Unable to cope with the war and its ramifications on the Vietnamese way of life, Trong kills himself. His suicide is symbolic of the larger death of the traditional way of life of the Vietnamese people, destroyed by war and the modern ideologies of capitalism and communism. Yet, the important parts of this tradition survive in Le Ly, and in turn to all the people she is able to reach through her book.
Anh
A wealthy businessman with a large household, Anh represents the capitalist class in Vietnam ; the change in him represents the change in this class due to the war. Although Anh was not initially as affected by the war as the peasant villagers, the war finally bankrupted him, and the Communists repossessed his home and business. After the war, he divorced his wife and remarried, changing from an elegant and expensive wife to a more communist and proletariat one. Le Ly returns to Saigon to find him no longer living in a palatial estate but in an impoverished neighborhood, no longer owning his own business, but working for a government factory. Although Anh never fully embraces Communism, he accepts it and lives with it, but like Le Ly, he does what he needs to do in order to survive.
The relationship between Anh and Le Ly is also symbolic of the relationship between Vietnam and the United States. Starting as a dangerous yet passionate affair, they grew apart, yet they are always connected by what they share : their son and their common suffering from the war. Over the years, their relationship changes from lovers to siblings. Just as all those involved—Anh and Le Ly, Americans and Vietnamese, businessmen, and village girls—are forever connected by common experience, so are the two countries as siblings of war.
Source : http://www.sparknotes.com/lit/whenh...
Read more :
Mary Catherine analysis of : “Representing Reconciliation : Le Ly Hayslip and the Victimized Body” (Nguyen) : http://aalitandmc.wordpress.com/201...
Juliet Lac, War Child : A Story of Survival, Mainstream, 2008.
Synopsis
Am I unlucky because of the terrible things that happened to me as a child, or am I lucky because of the life I lead now ? I hardly know myself. All I can tell you is that no sane person would ever choose war over peace. War is inhuman madness. War is what people do to each other when they have completely forgotten the sacredness of life.
In 1978, Juliet Lac fled war-ravaged Vietnam in a fishing boat, desperately hoping to find freedom in America. Conditions on the small, overcrowded vessel were horrific, and eight days into the journey, disaster struck. As the craft came in sight of shore, it was hit by a ferocious storm. The boat sank with the loss of half of the 350 passengers on board, but miraculously Juliet escaped, eventually making her way to the USA to begin her new life.
Aged only eleven, Juliet had witnessed at first hand the barbarity of war, and after the death of her father and her younger sister, she and her mother were left to struggle on in poverty. But their flight to the West did not have a fairy-tale ending, and in the coming years they faced a struggle to integrate into American society.
This is a remarkable and inspirational story of a war child’s fight first for survival in the devastated landscape of Vietnam and then for acceptance in the affluent West.
Juliet Lac was born in Vietnam in 1967, raised in California and moved to Paris with her family in 1996. While there she launched the Paris Woman Journal, www.pariswoman.com, a website for English-speaking expatriate women living in Paris. Now back living in California, Juliet is currently working on her second book.
Source : http://www.rbooks.co.uk/product.asp...
Paperbacks : War Child, By Juliet Lac
Juliet Lac’s autobiography begins with a bang. When she was five years old, her street in Saigon was hit during a Vietcong missile attack – the first in a series of miraculous escapes in this self-styled « story of survival ».
She survives poverty and danger during the Vietnam war ; a dreadful escape by boat on a sort of floating Black Hole of Calcutta ; and months in a refugee camp in Malaysia, before being granted permission to migrate to the United States.
When Lac is reliving her childhood there is an immediacy about the writing ; later, it becomes self-analytical in the most banal way (« However, I still had several issues to deal with »). As a scared child she never pitied herself and the reader is given the space to do so, but her adolescence and adult life is a litany of complaint, about the difficulties of settling in a foreign land, her unsatisfactory mother and her selfish husband. She acknowledges this : « I realise I might come across as the kind of person who would feel sorry for herself whatever happened ». I’m afraid she’s right. Hers is an admirable story of courage and success. But she needed a bit more help from her editors to make this an admirable book.
Reviewed by Brandon Robshaw, Sunday, 20 January 2008.
Source : http://www.independent.co.uk/arts-e...
LỜI GIỚI THIỆU- GS. Phạm Cao Dương (trích)
Nguyễn Huỳnh Mai không phải là một nhân vật chính trị hay quân sự nổi tiếng của miền Nam trong thời gian tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa nhưng bà có đủ một số những điều kiện cần để viết về cuộc sống của một thành phần quan trọng của dân tộc Việt Nam hiện đại : Phật Giáo Hòa Hảo. Bà không quá trẻ để không được sống hay chứng kiến cuộc sống đạo hạnh và thanh bình của những tín đồ của đạo này cũng như những năm đầy sóng gió dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa của miền Nam. Cuộc đời hoạt động cho Phật Giáo Hòa Hảo của thân phụ bà đã đưa đẩy bà đến các cuộc sống không hoàn toàn bình lặng, nhưng nó đã cho bà những dịp tiếp xúc với các nhân vật lãnh đạo của Phật Giáo Hòa Hảo và những gì xảy ra cho họ. Bà cũng không quá già để không có dịp sống với tuổi trẻ ở miền Nam trong những thập niên sáu mươi và đầu bảy mươi, đồng thời mở đầu cho cuộc đời hoạt động của một ký giả ở trong nước, rồi sau này tiếp tục đi học và hoạt động ở nước ngoài. Sự không già đã giúp cho bà có đủ những khả năng cần thiết để theo dõi những gì đã xảy ra chung quanh bà và hiểu được giới trẻ cũng như những vấn đề của giới trẻ. Sự không già cũng giúp bà có đủ sức khỏe và nghị lực để tham gia một cách tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xã hội và chính trị bên cạnh những gì thuộc phạm vi chuyên môn, đặc biệt là cầm viết và chăm lo giáo dục các con. Chưa hết, vì được huấn luyện để làm báo, hành nghề ở Việt Nam, tiếp tục hoạt động ở Mỹ, bỏ báo đi học truyền hình, rồi không hành nghề sau khi tốt nghiệp mà làm những việc liên hệ như một người Việt tình nguyện phục vụ cộng đồng, Nguyễn Huỳnh Mai đã viết hồi ký theo chiều hướng này. Bà đã nhìn những sự việc xẩy ra trong đời mình qua con mắt quan sát và phân tích của một ký giả báo chí và truyền hình. Bà vừa làm phóng sự với người ngoài, vừa làm phóng sự với chính mình, trong khi đó vẫn giữ bản chất của mình như một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và một phụ nữ Việt Nam với tất cả những ngại ngùng, do dự khi kể lại những gì liên hệ tới cuộc sống của mình và của gia đình mình để in thành sách và phổ biến.
Hồi ký Cô Bé Làng Hòa Hảo được thực hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau từ những nhật ký viết thời trước 1975 đến thư gửi các con, rồi hồi ký sau năm 1975. Đây là một sự chọn lựa vô cùng khôn khéo vì một mặt tác giả vẫn giữ nguyên được những gì bà đã viết trước kia, mặt khác bà có thể trình bày các chuyện xẩy ra trong xã hội, trong cộng đồng, trong gia đình hay trong đời sống riêng của cá nhân mình một cách tự nhiên, dễ dàng, đồng thời có thể đưa ra những suy tư và nhận định của riêng mình về đủ về mọi vấn đề từ chính trị, tôn giáo, triết học đến giáo dục con cái và cuộc sống hàng ngày ở những miền đất tạm dung. Người đọc trong những trường hợp này có thể đọc lướt qua một cách dễ dàng nếu không đồng ý với tác giả. Nhưng dù đồng ý hay không đồng ý, người đọc đều có thể thấy bàng bạc trong khắp tác phẩm của bà, Nguyễn Huỳnh Mai đã để lộ ra một tình cảm yêu nước nồng nàn và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào tương lai của quê hương, của dân tộc Việt Nam của bà. Bà có một cái nhìn lịch sử xa, dài và tích cực. Cũng vậy trong cách bà nhìn thời gian qua những nét nhăn trên mặt của người phụ nữ là bà. Ghi chú về nghề nghiệp và gia đình vào khoảng đầu năm 1992, bà viết :
« Tôi không bao giờ thấy buồn về những nếp nhăn của mình mà thấy nó dễ thương. Nó cho mình thấy quãng thời gian trôi qua trong cuộc sống của mình. (Mình sẽ không là mình của ngày hôm nay nếu không có một quá khứ dài trên bốn mươi năm) » (trang 287).
Phải long đong vất vả, phải dời bỏ quê hương từ ngày còn nhỏ, phải đổi tên, phải theo học trường Việt-Pháp-Miên rồi trường Pháp với các bạn người Miên và người Tàu, rồi lại trở về Việt Nam để cuối cùng chạy qua Mỹ, lúc nào cũng phải vật lộn với những học đường, những ngôn ngữ và những phong tục tập quán mới, nhưng Nguyễn Huỳnh Mai bao giờ cũng vẫn lạc quan. Bà vẫn luôn luôn cho là « Ông Trời thương cho người Việt đi khắp thế giới » (tr. 311) và bà có nhiều quê hương để mà yêu :
« Mỗi dân tộc đều có những người dân yêu say đắm, nồng nàn quê hương mình, mẹ của con lại có nhiều quê hương để yêu thương. Mỗi quê hương mẹ sống, ăn thức ăn, nghe ngôn ngữ, hít thở không khí, hòa đồng với dân tộc đó, và nó trở thành một phần của tâm hồn và thể xác mẹ. » (trang 309).
Đó là Nguyễn Huỳnh Mai, cô bé làng Hòa Hảo, của miền đất mới nhất của dân tộc Việt, nơi tất cả chỉ mới là khởi đầu, kể cả tôn giáo của cô. Nhưng trong cái mở đầu đơn sơ ấy, Phật Giáo Hòa Hảo đã cho phép người ta được tự do đi xa hơn sau khi đã được võ trang bằng những giáo lý căn bản để khỏi lạc đường. Nguyễn Huỳnh Mai đã có được tất cả những tự do để đi xa, để quan sát, để tìm tòi, để phân tích, để nhận định và để học hỏi. Trải rộng trong không gian và thời gian, tác phẩm của bà đã cho người ta thấy lại những kinh nghiệm, những suy tư của bà trong khoảng thời gian ấy. Và bà đã không lạc đường. Cô bé làng Hòa Hảo lúc nào cũng tâm tâm, niệm niệm, cũng lạc quan hướng về làng Hòa Hảo, về quê hương Việt Nam của cô, bất chấp không gian xa lạ và thời gian vùn vụt trôi qua, vì đối với cô « quá khứ, tương lai và hiện tại đều là một » (trang 287).
Chia xẻ sự lạc quan và tin tưởng của Nguyễn Huỳnh Mai, tôi xin được gửi tới người đọc « Cô Bé Làng Hòa Hảo » những lời giới thiệu trên đây.
Huntington Beach, mùa hè năm 1994. G.S. Phạm Cao Dương
Source : http://www.nguyenhuynhmai.com/D_1-2...
No Other Road to Take. The Memoirs of Mrs. Nguyen Thi Dinh, Translated by Mai Elliot, Southeast Asia Program Publications, Data Paper - Southeast Asia Program, Cornell University, No. 102, 1976.
The memoir of a woman whose strength, courage, and intelligence had a profound impact on Vietnamese history. Not simply a participant in the Viet Minh resistance against the French, Mrs. Nguyen Thi Dinh was also an active leader who organized the uprising in Ben Tre province against the Diem regime, was appointed to the leadership committee of the National Liberation Front (NLF), and seved as Chairman of the South Vietnam Women’s Liberation Association. The oppressive policies of Diem and the problems of civil war and American involvement are described with powerful immediacy-effectively illustrating the patriotic fervor and determination of those she fought with and helped lead.
Source : http://www.cornellpress.cornell.edu...
Nguyên Thi Thu-Lâm, Fallen Leaves : Memoirs of a Vietnamese Woman from 1940-1975, Yale Univ Southeast Asia Studies, The Lac-Viet Series #11 (June 1989)
The author went from a shy teenager to a resourceful and successful businesswoman who dealt with the Americans during the Vietnam war. Her reminiscences about her father who was pro-revolutionary in the 50’s, her life in communist controlled North Vietnam, and her escape from North to South Vietnam in 1954 are important historical data.
This is also the story of a strong-willed woman who married her first husband to get away from her parents. Disillusion led to a separation then divorce. She married an American captain (a lawyer) the second time around only to find out that cultural differences were too big for her to handle. She later divorced him.
Feeling rejected by both communist Vietnam and America, she longed for her native country : even in her happiest moment, she remained « a child of war, a child of Vietnam. »
Alain Viet : http://www.amazon.com/Fallen-Leaves...
Voir l’analyse de Michele Janette, in Guiyou Huang (ed.), Asian American autobiographers : a bio-bibliographical critical sourcebook, pp. 371-374 : http://books.google.fr/books?id=L11...
Tales from a Mountain City is a blend of history and memoir told by a young Vietnamese girl growing up during the last years of the war and the communist regime. This is a poignant account of the innocence of a child, the innocence of a people, shattered again and again by the cruel tides of power and dogma, clinging tenaciously to their traditions, their home provinces, their hometowns, until the sheer pervasiveness of a communist value system drives them to suicide or exile. Indirectly, this story raises many questions on nationalism and qualities of power, freedom and independence, human rights and human nature.
Source : http://odysseybooks.com.au/9780980690965
Giới thiệu hồi ký bằng Anh ngữ Tales from a Mountain City của Quỳnh Đào (tức thi sĩ Dạ Quỳnh)
Thảm kịch Việt Nam dưới mắt một thiếu nữ
Tales from a Mountain City là câu chuyện viết về ba thế hệ trong một gia đình người Việt qua giọng kể của tác giả Quỳnh Đào khi cô còn nhỏ. Những gì đã xảy đến cho gia đình tác giả cũng phản ảnh về nhiều mặt những gì đã xảy đến cho toàn thể đất nước và dân tộc Việt Nam với tất cả những phức tạp, những xung đột ý thức hệ, những đàn áp, những tàn nhẫn, và những cơ hội bỏ lỡ của một quốc gia ; và lòng can đảm, khả năng chịu đựng bến bỉ, tính tháo vát và tinh thần kiên quyết vượt qua mọi tai ương và thảm kịch để sống còn của một dân tộc.
Đây không phải là những trang nhật ký tương tự như tác phẩm danh tiếng của Anne Frank, nạn nhân của vụ tàn sát diệt chủng chống người Do Thái. Tuy nhiên, so với Anne Frank, cô bé nổi tiếng người Do Thái sinh tại Đức và sống tại Amsterdam, Hoà Lan, khi nước nầy bị Đức Quốc Xã chiếm đóng trong Đệ Nhị Thế Chiến, những xúc cảm và nhận xét của Quỳnh Đào cũng không kém phần sâu sắc và tinh tế.
Tác phẩm Tales from a Mountain City có nét tương đồng với Wild Swans – The Three Daughters of China câu chuyện về ba thế hệ trong một gia đình người Trung Hoa của Jung Chang - ở chỗ bên nội của gia đình Quỳnh Đào có họ với Bà Chúa Chè, thứ phi xinh đẹp của Chúa Trịnh đã trị vì đất Bắc vào thế kỷ thứ Mười Bảy trong thời kỳNam-Bắc phân tranh lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Mẹ của Jung Chang tham gia vào hàng ngũ bộ đội Mao Trạch Đông, còn Lan, mẹ của Quỳnh Đào, tuy có tham gia Việt Minh nhưng sau đó vì thất vọng bà đã bỏ về thành và quyết định xuôi Nam bắt đầu cuộc sống mới. Jung Chang đã hăng hái tham gia Hồng quân và được gửi đi đến những vùng xa xôi để học tập và cải tạo tư tưởng nhưng cuối cùng đã nhận thấy những việc làm nầy là vô ích. Còn Quỳnh Đào, cô bị bắt buộc tham gia lao động cưỡng bức, đã phải chịu đựng rất nhiều kham khổ về vật chất lẫn tinh thần, nhưng cuối cùng đã vượt qua được những thử thách nầy cho dù chính cô cũng ngạc nhiên về khả năng chịu đựng của mình.
Tại miền Bắc sau 1954 và tại miền Nam Việt Nam sau 1975, chế độ Hà Nội cho áp dụng những chính sách cai trị tương tự như những chính sách do Mao Trạch Đông áp đặt tại Trung Hoa sau 1949.
Tuyên truyền và học tập chính trị, tẩy não và cải tạo tư tưởng, tập thể hoá hệ thống sản xuất, cộng với hệ thống công an hộ khẩu kiểm soát mọi mặt đời sống nhân dân, đây là những công cụ nhằm củng cố quyền lực của Đảng Cộng Sản và chế độ độc tài vô sản chuyên chính.
Những đổi thay và mất mát, những vụ thiệt mạng ngoài biển khơi hay những vụ mất tích của những người bị đày đi trại cải tạo – một chế độ nhà tù tàn ác tương tự như chế độ nhà tù tại Liên Bang Xô Viết, nhằm trừng phạt cựu quân cán chính miền Nam Việt Nam - qua sự miêu tả của Quỳnh Đào đã cho thấy rõ thảm kịch ‘Việt Nam trong thời bình’ to lớn như thế nào.
Hàng triệu người đã bỏ phiếu băng đôi chân của họ và tìm cách vượt thoát chế độ phi nhân nầy. Quỳnh Đào là một trong những người đó.
Sự ra đi của Quỳnh Đào là một mất mát cho nước Việt Nam nhưng lại có lợi cho nước Úc. Thế hệ của cô đã trở thành một trong những thành phần quan yếu nhất dẫn đến sự thành công và lớn mạnh của khối người Việt hải ngoại ngày nay.
Lồng trong những trang hồi ký nầy là những dữ kiện lịch sử và văn hoá thích hợp nhằm giúp người đọc ngoại quốc nhận thức một cách sâu sắc hơn những tình tiết trong tác phẩm.
Tales from a Mountain City là một đóng góp đáng kể cho nền văn chương viết về Việt Nam trong giai đoạn nầy và là một nguồn tài liệu có giá trị giúp cho thế hệ trẻ gốc Việt tại hải ngoại hiểu biết thêm về một trong những cuộc di cư lớn nhất của người tỵ nạn trong hậu bán thế kỷ thứ hai mươi.
Lưu Tường Quang, AO, Cựu Tổng Giám Đốc Hệ Thống Phát Thanh Đa Văn Hoá trên toàn Úc.
Source : http://www.lyhuong.net/viet/index.p...
Thi-Hien Tran, Itinéraire d’une vietnamienne. L’étudiante insoumise, récit, Paris, Balland éditeur, 2009.
Thi-Hien est née dans un petit village du Nord Vietnam où elle partage sa vie entre l’école et le travail dans les champs. Sous les bombardements américains en 1972, la jeune fille brillante, bachelière de 17 ans, est sélectionnée pour partir étudier en Pologne, République socialiste et modèle de réussite. Fiers et admiratifs que l’une des leurs ait été ainsi « élue » par les autorités, sa famille et les habitants de son village vont alors attendre son retour avec impatience, pour qu’elle les aide à reconstruire le pays après la guerre. En Pologne, Thi-Hien verra son destin changer d’orientation.
En 1981, lasse de la clandestinité, elle part en France, laissant derrière elle son mari et sa fille. Elle y découvre la liberté et un système politique nouveau, mais aussi la mesquinerie et la bassesse de ceux qui ne manqueront pas d’exploiter sa situation précaire. Il lui faudra traverser de nouvelles épreuves, et attendre une longue année avant que les siens puissent la rejoindre.
Thi Hien TRAN nous livre ici le témoignage émouvant d’une femme, rebelle et insoumise, éprise de liberté et qui, toute sa vie, aura essayé de vivre son propre destin, non pas celui que le système communiste, qu’elle n’a cependant jamais renié, avait choisi pour elle.
Loin d’avoir réalisé son rêve de jeune fille, Thi-Hien TRAN n’a jamais cessé de se battre et a surmonté de terribles épreuves. Rongée par la honte d’avoir « trahi » ses proches pour décider seule de son avenir, elle n’est retournée au Vietnam que 19 ans plus tard.
CR sur le site AAFV : de http://www.aafv.org/Itineraire-d-un...
Những ghi chép trên tuyến lửa
Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ TPHCM vừa ra mắt bạn đọc cả nước cuốn sách đặc biệt Nhật ký Thanh niên xung phong Trường Sơn 1965-1969 của tác giả Trần Văn Thùy.
Năm 1965, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, Thùy gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong, vào tuyến lửa Trường Sơn làm nhiệm vụ mở đường cho xe ra tiền tuyến.
Năm 2002, Trần Văn Thùy mất sau một cơn bệnh nặng. Một số người bạn của anh đang làm việc trong lĩnh vực xuất bản tình cờ tiếp xúc với nhiều trang ghi chép của anh khi đang là TNXP trên tuyến lửa.
Theo nhà văn Lại Nguyên Ân, một trong những người bạn của tác giả, đã trực tiếp biên tập di cảo của Trần Văn Thùy tổng cộng có 5 cuốn. Ba cuốn là sổ tay cũ, có lẽ là ghi trực tiếp tại chiến trường, vì ngoài các ghi chép dạng nhật ký còn chép nhạc, các bài tập kiến thức toán, những ghi chép cảm xúc… Hai cuốn còn lại gồm nhiều tờ giấy rời được đóng lại, nội dung hầu hết chép lại phần nhật ký của các cuốn trước. Chính từ hai cuốn này, tác phẩm Nhật ký Thanh niên xung phong Trường Sơn 1965-1969 đã ra đời.
Cũng như những cuốn nhật ký khác, điều hấp dẫn bạn đọc ở cuốn nhật ký của Trần Văn Thùy chính là ở chất riêng của tác giả. Với tư cách là người trong cuộc, các trang nhật ký của anh đã ghi lại một phần sinh động cuộc sống đời thường và nơi chiến trường dưới đôi mắt, trái tim một cậu học trò lần đầu ra trận.
X.Thân
Source : http://www.sggp.org.vn/vanhoavanngh...
“Nhật ký Thanh niên xung phong Trường Sơn 1965 - 1969” : Lý tưởng của tuổi trẻ một thời đạn lửa
Báo Khánh Hòa - 03/11/2011
“Đêm qua, B52 lại quật gần đâu đây, rung chuyển cả lán trại. Đêm nằm yên lặng nghe mưa xối xả dội xuống rừng. Trên đài đang kể lại câu chuyện cua chữ A năm xưa. Lòng lại dặn lòng, trằn trọc. Cả khu cột sống nhức nhối, người yếu quá rồi. Mình hoàn toàn không muốn cuộc đời sẽ hư đốn đi. Dù có còn một tàn lực mình cũng nguyện cống hiến cho sự nghiệp có ích của cuộc đời. Đừng để bản thân rỗi rãi, đừng sống ích kỷ quá, đừng để năm tháng qua đi một cách vô vị…”. Đó là những dòng tâm sự của cựu thanh niên xung phong (TNXP) Trần Văn Thùy viết vào ngày 26-7-1969 trong cuốn “Nhật ký TNXP Trường Sơn 1965 - 1969” - một quyển sách chứa đựng suy nghĩ, lý tưởng của tuổi trẻ một thời đạn lửa.
Vào những ngày đầu tháng 10-2011, trên kệ của rất nhiều nhà sách xuất hiện cuốn Nhật ký TNXP Trường Sơn 1965 - 1969 của Trần Văn Thùy. Sách dày hơn 400 trang, do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh ấn hành. Cầm quyển sách trên tay, tôi đã hình dung đến những hình ảnh về các chiến sĩ TNXP năm xưa mà mình bắt gặp đâu đó trong các câu chuyện hoặc những thước phim tư liệu. Những địa danh như : Truông Bồn, Ngã ba Đồng Lộc, U Bò… bất chợt xuất hiện. Tôi hiểu rằng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng TNXP với những chàng trai, cô gái mười tám, đôi mươi đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Họ có mặt ở những nơi xung yếu nhất, nơi kẻ thù đánh phá ác liệt nhất để giữ vững mạch máu giao thông suốt từ Bắc vào Nam. Họ cũng phải đối mặt với những trận sốt rét rừng, hy sinh vì bom đạn kẻ thù… Vậy nhưng, khi đọc hết cuốn nhật ký này, tôi mới thấy những gì mình biết về lực lượng TNXP năm xưa là quá ít và còn nhiều khiếm khuyết.
Từ cuốn Nhật ký TNXP Trường Sơn 1965 - 1969, độc giả không chỉ được tiếp cận với những vất vả, hy sinh, chiến công của lực lượng TNXP trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, mà đó còn là một kho tư liệu quý. Trong lời giới thiệu cuốn nhật ký, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân bày tỏ : “Với tư cách là ghi chép của người trong cuộc, các trang nhật ký của anh đã ghi lại được một phần đáng kể diện mạo cuộc sống ngày thường của những TNXP tại tuyến lửa như : làm đường, sửa đường, duy trì cuộc sống của mình và đồng đội giữa nơi rừng già nhiều thiếu thốn, nhiều hiểm họa, trước hết là hiểm họa từ máy bay địch bắn phá con đường… Những con người lao động hết mình đảm bảo sự thông suốt của con đường ra trận vẫn đồng thời là những con người có lý tưởng luôn luôn hướng về tương lai của mình ở cuộc sống sau chiến tranh, luôn hy vọng về cuộc sống ấy với những sắc màu tươi sáng hơn, đáng mong ước hơn…”. Với nhiều người trong chúng ta hôm nay, cuộc sống, làm việc, chiến đấu của lực lượng TNXP vẫn ít được biết đến. Những suy nghĩ về cuộc sống, lý tưởng cho tương lai của họ lại càng ít biết hơn. Cuốn nhật ký của cựu TNXP Trần Văn Thùy như một cơ hội cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về những vấn đề sâu kín trong lòng người TNXP.
Tác giả cuốn nhật ký sinh năm 1946, quê ở tỉnh Hà Nam. Năm 1965, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông đã tình nguyện xin gia nhập lực lượng TNXP vào tuyến lửa đường Trường Sơn ở Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, biên giới Việt - Lào. Trong khoảng thời gian 4 năm tham gia lực lượng TNXP, bản thân ông đã có những trải nghiệm sâu sắc mà trong ký ức và tâm hồn mãi không thể nào quên được. Cái cách người cựu TNXP lăn xả vào đời với lòng quả cảm, kiên cường, vượt qua những nỗi riêng tư để xả thân làm nên lịch sử, ghi dấu thế hệ mình vào lịch sử hiện đại đầy máu lửa của dân tộc. Cuốn nhật ký được bắt đầu từ ngày 11-6-1965 và kết thúc vào ngày 2-9-1969. Đọc cuốn nhật ký, chúng ta không chỉ thấy được những công việc thường ngày đầy gian lao, vất vả của lực lượng TNXP như phá núi, mở đường, bắc cầu, san hố bom… mà còn thấy được cả những hy sinh, những trận sốt rét ác tính giữa chốn rừng thiêng nước độc. Bên cạnh đó là những dòng tự sự của một trái tim chân thành trong tình đồng chí, đồng đội, tình bạn bè, gia đình và cả tình yêu. Trong suốt cuốn nhật ký của mình, tác giả đã có nhiều đoạn văn sâu sắc về khung cảnh thiên nhiên, tình cảm, nội tâm con người. Cùng với đó, rất nhiều câu danh ngôn của các triết gia, các nhà văn nổi tiếng được tác giả trích dẫn như một cách để tự răn bản thân và tạo chỗ dựa tinh thần trong những thời điểm khó khăn nhất. Điều thu hút hơn cả trong cuốn nhật ký chính là những suy nghĩ, tình cảm thể hiện khát vọng cống hiến, lý tưởng xây dựng một đất nước, một xã hội tươi đẹp. Những vướng bận riêng tư không làm cho tác giả chùn lòng, nản chí mà tác giả đã có cách hành xử cao thượng, thể hiện cho tính cách, tâm hồn của một người có tri thức và có chiều sâu văn hóa. Quá khứ qua đi cho mình nhiều điều phong phú… Hãy sống sao cho đúng bản sắc con người. Trầm tĩnh nhưng sâu sắc, cẩn trọng nhưng không khôn ngoan, khéo léo nhưng không gian giảo, tinh vi nhưng không tính toán hẹp hòi… Đấy ! Cuộc sống quanh mình sống sao cho ý vị. Năm tháng qua đi đừng để cuộc sống mang nhiều luyến tiếc, hối hận… (Ngày 21-7-1966, trang 92). Lý tưởng tối thượng trong trái tim, khối óc của người TNXP chính là ước mong đóng góp sức lực của mình vào sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Sẽ thật sai lầm nếu đưa ra sự so sánh giữa cuốn nhật ký này với những cuốn nhật ký đã được xuất bản khác, bởi dù sao, đây cũng là những tư liệu cá nhân và các tác giả viết ra nó không theo cung cách làm ra một tác phẩm với ngôn từ nghệ thuật. Tuy nhiên, với những gì được thể hiện, đây là cuốn sách đáng được các bạn trẻ tìm đọc.
NHÂN TÂM
Source : http://www.baokhanhhoa.com.vn/Vanho...
Xuan Phuong & Danièle Mazingarbe, Ao Dai. Du couvent des Oiseaux à la jungle du Viêt-Minh, Paris, Plon, 2001.
[texte de la quatrième page de couverture]
Fille d’un mandarin ami des francais, élevée au couvent des Oiseaux à Dalat, Xuan Phuong portait l’ao dai, cette tunique traditionelle, symbole de la femme vietnamienne. En 1946, à l’âge de seize ans, elle quitte soudain sa famille et sa vie confortable pour rejoindre le Viêt-minh.
Neuf années durant, pendant la guerre d’Indochine, elle vivra dans la jungle au mépris du danger, nu-pieds, vêtue comme ls montagnards d’une chemise rugueuse et d’un pantalon noir. De retour à Hanoi en 1954, après Dien Bien Phu, Phuong connaitra les débuts du communisme, les nationalisations, puis les bombardements américains, et la « libération » de Saigon par les troupes nord-vietnamiennes en 1975.
Arrivée à l’âge de la retraite, elle entame une nouvelle vie de femme d’affaires à la tête d’une galerie d’art, avec ses trois fils, au coeur d’une famille enfin réunie.
De l’Indochine des francais au Viet-nam aujourd’hui, le témoignage de Xuan Phuong apporte un éclairage inédit sur l’histoire du Viet-nam, des anecdotes émouvantes, des rencontres - celle de Hô Chi Minh, du général Giap, de Joan Baez - le récit captivant d’une femme exceptionnelle qui n’a jamais voulu quitter son pays.
Xuan Phuong est née à Hué en 1929. Elle fut à tour médecin, journaliste, réalisatrice de films, galeriste. Danièle Mazingarbe est journaliste. Ao dai est son premier livre.